CẬP NHẬT HƯỚNG DẪN CỦA IDSA VỀ ĐIỀU TRỊ NHIỄM KHUẨN DO ACINETOBACTER BAUMANNII KHÁNG CARBAPENEM NĂM 2023

Acinetobacter baumannii là loài trực khuẩn gram âm hiếu khí, đa hình thái và không di động. Đây là một trong những căn nguyên chính liên quan đến nhiễm trùng bệnh viện, đặc biệt trên những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch hay phải nằm viện kéo dài (trên 90 ngày). Do có phổ kháng kháng sinh rộng, việc điều trị các trường hợp nhiễm trùng do A. baumannii vô cùng khó khăn. Theo báo cáo giám sát kháng kháng sinh tại Việt Nam năm 2020 do Bộ Y tế công bố trong hội nghị triển khai chiến lược quốc gia về phòng, chống kháng thuốc tổ chức ngày 20-21/11/2023, mức độ nhạy cảm của các chủng A. baumannii với hầu hết các kháng sinh thông thường đều ở mức dưới 15%. Trong đó, 87,8% chủng phân lập kháng với các kháng sinh nhóm carbapenem. Đây là một thống kê rất đáng lo ngại bởi carbapenems thường được xem là biện pháp cuối cùng trong các trường hợp nhiễm khuẩn gram âm đa kháng thuốc.

Acinetobacter baumannii kháng carbapenem (CRAB – Carbapenem Resistant Acinetobacter baumannii) là một thách thức lớn trong việc điều trị nhiễm khuẩn. CRAB phần lớn được phân lập từ bệnh phẩm đường hô hấp hoặc mủ vết thương. Đây là những vị trí cơ thể đã có sẵn hệ vi sinh vật cư trú hoặc dễ bị nhiễm bẩn trong quá trình lấy mẫu nên không dễ để xác định liệu CRAB có thực sự là căn nguyên gây nhiễm trùng hay không. Từ đó dẫn đến sự không chắc chắn trong việc lựa chọn và sử dụng kháng sinh trong những trường hợp này. Thêm vào đó, ngoài việc đề kháng với carbapenem, hầu hết kháng sinh thường được khuyến cáo trong điều trị nhiễm khuẩn do A. baumannii cũng không có tác dụng với CRAB, từ đó làm hạn chế đáng kể các lựa chọn phương án điều trị.

Trong cập nhật hướng dẫn về điều trị nhiễm khuẩn Gram âm do Hiệp hội bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ (IDSA) công bố vào ngày 06/07/2023, phác đồ kháng sinh đơn độc không còn được khuyến cáo sử dụng trong điều trị nhiễm khuẩn do CRAB, kể cả ở mức độ nhẹ do thiếu bằng chứng về hiệu quả trên lâm sàng. Đây là một thay đổi lớn so với phiên bản trước đó vào năm 2021. Hướng dẫn được trình bày dưới dạng các câu trả lời cho các câu hỏi lâm sàng. Bài viết này xin phép được lược dịch thông tin từ các câu trả lời đó và trình bày ở Bảng 1.

Bảng 1. Các khuyến cáo được đề xuất trong điều trị nhiễm khuẩn do CRAB

STT

Khuyến cáo được đề xuất

1

Hướng tiếp cận chung trong việc điều trị các trường hợp nhiễm khuẩn do CRAB là phối hợp ampicillin-sulbactam liều cao (tổng liều hàng ngày tương ứng với 6-9g sulbactam) với ít nhất một kháng sinh khác.

2

Cần phối hợp ít nhất 2 kháng sinh ngay khi có thể cho đến khi ghi nhận sự cải thiện của tình trạng bệnh trên lâm sàng.

3

Liều cao ampicillin-sulbactam được khuyến cáo sử dụng, bất kể độ nhạy của vi khuẩn như thế nào. Sulbactam đã được chứng minh có tác dụng trên các chủng phân lập A. baumannii thông qua các thử nghiệm in vitro, trên động vật cũng như các kết quả lâm sàng.

4

Đối với kháng sinh nhóm polymyxins, có thể cân nhắc phối hợp polymyxin B với ít nhất một kháng sinh khác. Polymyxin B được ưu tiên hơn colistin do có thông số PK phù hợp hơn. Colistin được chuyển hóa thành dạng có hoạt tính ở đường tiết niệu nên được khuyến cáo sử dụng trong trường hợp nhiễm khuẩn đường tiết niệu do CRAB. Tuy vậy, trường hợp này tương đối hiếm xảy ra.

5

Đối với kháng sinh nhóm tetracycline, có thể cân nhắc phối hợp minocycline hoặc tigecycline liều cao với ít nhất một kháng sinh khác. Minocycline được ưu tiên hơn do bác sĩ có nhiều kinh nghiệm lâm sàng trong việc sử dụng thuốc này hơn cùng với việc sẵn có các tiêu chí phiên giải độ nhạy theo CLSI. Dù vậy, tigecycline cũng là một lựa chọn không tồi.

6

Cefiderocol là kháng sinh mới duy nhất được FDA chấp thuận thuộc nhóm β-lactam có tác dụng với CRAB trong thử nghiệm in vitro.  Cefedirocol được khuyến cáo sử dụng phối hợp với kháng sinh khác và chỉ nên được giới hạn sử dụng trong điều trị nhiễm khuẩn do CRAB kháng trị hoặc không dung nạp với các kháng sinh khác.

7

Meropenem hoặc imipenem-cilastatin liều cao, tiêm truyền kéo dài không được khuyến cáo sử dụng do các chủng phân lập CRAB có chỉ số meropenem và imipenem MICs cao (≥ 8 µg/mL).

8

Rifabutin cũng như các rifamycins khác không được khuyến cáo sử dụng do độc tính và đặc điểm tương tác thuốc của nhóm thuốc này.

9

Kháng sinh đường khí dung không được khuyến cáo sử dụng do những nghi ngại về sự phân phối không đồng đều thuốc trong phổi nhiễm khuẩn và những biến chứng hô hấp có thể xảy ra ở bệnh nhân có bệnh hô hấp khác kèm theo (ví dụ như co thắt phế quản).

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ Y tế. (2023), “Báo cáo giám sát kháng kháng sinh tại Việt Nam 2020”, Tài liệu Hội nghị triển khai Chiến lược quốc gia về phòng, chống kháng thuốc tại Việt Nam giai đoạn 2023 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tr. 40.
  2. Howard, A., O’Donoghue, M., Feeney, A., & Sleator, R. D. (2012), “Acinetobacter baumannii: an emerging opportunistic pathogen”, Virulence3 (3), pp. 243–250.
  3. Tamma PD, Aitken SL, Bonomo RA, Mathers AJ, van Duin D, Clancy CJ. (2023), “Infectious Diseases Society of America Antimicrobial-Resistant Treatment Guidance: Gram-Negative Bacterial Infections”. Infectious Diseases Society of America 2023; Version 3.0, Available at https://www.idsociety.org/practice-guideline/amr-guidance/, Accessed 26/12/2023.
  4. Wong, D., Nielsen, T. B., Bonomo, R. A., Pantapalangkoor, P., Luna, B., & Spellberg, B. (2017), “Clinical and Pathophysiological Overview of Acinetobacter Infections: a Century of Challenges”, Clinical microbiology reviews. 30 (1), pp. 409–447.

Lược dịch và tổng hợp

DS. Trần Đức Nguyên Phúc